DIRECT NEWS INPUT SEARCH

 

printable version

TPP: Americans and Vietnamese lose-Big corporations win
10 Nov 2015: posted by the editor - Vietnam

Tác giả: CHUCK SEARCY và LADY BORTON
HÀ NỘI—Nay Hoa Kỳ, Việt Nam và 9 qu�́c gia khác vừa ký TPP (Hiệp định đ�́i tác xuyên Thái Bình Dương) và nội dung của văn kiện này cu�́i cùng cũng được công b�́ trước dư luận—Qu�́c hội Mỹ và các cơ quan lập pháp của các nước thành viên khác của TPP sẽ phải quy�́t định có thông qua Hiệp định này. Các cuộc hội đàm ti�́n hành trong vòng kín, cho tới khi văn kiện Hiệp định được ký k�́t. Trước khi toàn văn của Hiệp định được công b�́ vài ngảy trước, ngay cả các nghị viên Mỹ cũng không được xem nội dung của nó, chỉ có có vài nghị sĩ được cho xem vài tờ của một s�́ chương nh�́t định, xem một mình, trong một phòng đóng kín.

Nay khi văn bản đã được công b�́, những chỉnh sửa trước đó đã nằm trong nội dung. Nó cho th�́y rằng người dân Mỹ bình thường không được lợi từ TPP. Đa s�́ họ sẽ th�́t thiệt.

Người dân Việt cũng rơi vào tình th�́ tương tự.

Vì sao người dân của hai đ�́t nước chúng ta phải lo lắng?

Năm nay là dịp kỷ niệm l�̀n thứ 20 ngày bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam. Ngày kỷ niệm này được tưng bừng quảng bá bởi cả hai bên như một cột m�́c, do những nguyên cớ t�́t đẹp. B�́n mươi năm k�̉ từ khi k�́t thúc cuộc chi�́n tranh đã tàn phá Việt Nam, di sản của bom mìn chưa n�̉ và của ch�́t độc da cam v�̃n còn đó, cùng với nghèo kh�̉ và những ký ức v�̀ cái giá phải trả và những hậu quả của cuộc chi�́n tranh. Người dân của cả hai bên dĩ nhiên tìm ki�́m cơ hội đ�̉ hợp tác và các cách thức làm việc với nhau sao cho đem lại lợi ích cho nhân dân cả hai nước.

Nhưng TPP sẽ không mang lại cả sự hợp tác l�̃n lợi ích cho các công dân Việt Nam và Mỹ. Đó là một sự khuy�́ch trương quy�̀n lực của các Tập đoàn thương mại phủ bóng lên hai chính phủ, được tính toán kỹ càng. Trong trường hợp của Việt Nam, ảnh hưởng này của các tập đoàn thương mại có th�̉ là m�́i đe dọa chủ quy�̀n của đ�́t nước, chủ quy�̀n của một qu�́c gia độc lập, với những luật lệ và quy tắc của mình.

Trong quá trình thông qua Hiệp định TPP—được dự ki�́n ti�́n hành trong hai năm cho trường hợp Việt Nam, theo ông Tr�̀n Qu�́c Khánh, thứ trưởng Bộ Công thương Việt Nam—đại diện của Qu�́c hội sẽ tìm hi�̉u giá phải trả và lợi ích mà Việt Nam sẽ có được. Các thành viên của Qu�́c hội Mỹ sẽ làm đúng như vậy, cho dù tại Nghị viện Mỹ, chỉ cho phép trả lời Có hay Không. Qu�́c hội Mỹ sẽ không cho phép sửa đ�̉i hay cải thiện b�́t cứ đi�̀u gì trong nội dung của Hiệp định,

Tuy nhiên, đây sẽ là một thời kỳ hệ trọng. Nay khi nội dung đ�́y đủ của Hiệp định đã được công b�́, người Mỹ và người Việt Nam c�̀n phải tham dự vào các cuộc đ�́i thoại và soát xét kỹ lưỡng toàn văn của bản hiệp định TTP. Các câu hỏi then ch�́t, thi�́t y�́u đã được xác lập trong những tháng vừa qua bới các chuyên gia, những người đã tập hợp những đoạn của những ch�̃ rắc r�́i của TPP từng rò rỉ (trong quá trình đàm phán). Quá trình này hiện đang ti�́n tri�̉n mau lẹ, và những chi ti�́t mới sẽ còn nhô lên một khi nội dung của TPP được công b�́. Dưới đây là một s�́ quan ngại:

Việt Nam sẽ bắt đ�̀u m�́t đi những thành t�́ quan trọng của chủ quy�̀n, chủ y�́u là trong 5 năm trước hạn chót, n�́u TPP bắt đ�̀u đi vào thực hiện.

Những văn bản được công b�́ g�̀n đây đ�̀ xu�́t TPP sẽ mở rộng1 quy�̀n hợp pháp của các tập đoàn thương mại và các nhà đ�̀u tư, và cho phép các tập đoàn thương mại được kiện các nước (thành viên) ra tòa án qu�́c t�́ đ�̉ b�̀i thường những t�́n hại gây bởi các chính sách vì lợi ích cộng đ�̀ng và b�́t kỳ luật nào (chẳng hạn như các quy ch�́ v�̀ tài chính và bảo hộ cho công nhân và cho môi trường) đe dọa lợi nhuận của các tập đoàn thương mại Mỹ. Các tập đoàn thương mại Mỹ sẽ đứng trên chính phủ Việt Nam và đứng trên cả luật pháp Việt Nam.

Những b�́t hòa sẽ không được dàn x�́p ở Việt Nam hay tòa án qu�́c t�́, mà bởi một ban g�̀m các luật sư mà tập đoàn thương mại sẽ triệu tập.

Hiệp định bao g�̀m các đi�̀u khoản ISDS (Dàn x�́p b�́t hòa giữa Nhà đ�̀u tư—Nhà nước), theo đó một ban g�̀m các luật sư sẽ được các tập đoàn triệu tập—chứ không phải các quan tòa Việt Nam hay qu�́c t�́—sẽ phán quy�́t các vụ kiện. Mục 28.9(2)(a) của Hiệp định nói rằng m�̃i bên sẽ chọn một thành viên của ban luật sư, và theo khoản (2)(d), người đứng đ�̀u ban (cũng là thành viên thứ ba của ban) được các bên chọn ra, hoặc, n�̀u th�́y c�̀n sẽ chọn ng�̃u nhiên từ một danh sách

những ứng viên đủ năng lực đ�̉ đưa vào ban. Có vẻ như những người soạn thào hiệp định đã tìm ki�́m một trình tự pháp lý sẽ hợp ý những qu�́c gia sẽ ký, nhưng đang xu�́t hiện những hệ quả không dự ki�́n trước. Chỉ một s�́ nhỏ luật sư có th�̉ đáp ứng được v�̀ mặt năng lực đ�̉ tham gia vào các ban như th�́. Một ban như th�́ d�̃ có th�̉ xu�́t hiện những “tay trong”, vì các tập đoàn thương mại có một ti�́ng nói mạnh trong việc nêu tên những luật sư nào được đưa vào ban.

Những tòa án2 ki�̉u gi�́u di�́m như th�́—g�̀m ba luật sư—hẳn sẽ có quy�̀n có được lợi tức trong các tập đoàn nào đ�̀ xu�́t hoặc chọn họ. Họ sẽ có khuynh hướng áp đặt những khoản phạt nặng cho Việt Nam. ISDS sẽ thu hẹp phạm vi của các quy ch�́ hợp pháp, làm cho Việt Nam và các qu�́c gia khác khó đạt được sự cải thiện các tiêu chu�̉n v�̀ người lao động và v�̀ môi trường. Nói tóm lại ISDS sẽ khắc ch�́ không gian chính sách của Việt Nam, mà Việt Nam đang dùng đ�̉ quản trị sự phát tri�̉n kinh t�́ của mình. Chính phủ Việt Nam sẽ không còn đóng vai trò thực thi nghĩa vụ trước các công dân của mình, mà lại đóng vai trò thực thi nghĩa vụ trước các tập đoàn kinh t�́ nước ngoài.

Ngay cả khả năng trả được khoản phạt nặng theo phán quy�́t của tòa án cộng với phí t�́ tụng cũng có th�̉ đ�̉y các chính phủ (thành viên TPP) phải nhượng bộ các chủ quy�̀n của họ: phải giảm bớt hiệu lực của các quy ch�́ v�̀ người lao động, v�̀ môi trường, và các quy định khác; phải tránh không thông qua các quy ch�́, nghị định như th�́. T�̉ chức phi lợi nhuận Public Citizen của Mỹ đã d�̃n những ví dụ3 ở Canada, nơi mà m�́i đe dọa của t�́ quy�̀n ISDS có th�̉ d�̃n những nhà hoạch định chính sách phải cân nhắc kỹ v�̀ việc ban hành các quy ch�́ bảo hộ liệu có đ�̉y chính phủ lâm vào một b�́t đ�̀ng đắt giả giữa nhà đ�̀u tư và nhà nước.

Đây không phải là sự suy di�̃n (cực đoan). Các trường hợp tương tự đã xảy ra.

Philip Morris, một hãng thu�́c lá của Mỹ, đã khởi kiện ch�́ng lại Australia4 và Uruguay5, cáo buộc các qu�́c gia này ra luật buộc phải đ�̀ những cảnh báo sức khỏe trên các sản ph�̉m thu�́c lá—là xâm phạm tải sản của công ty này, và đã làm co hẹp lợi nhuận của Philip Morris. Một hãng của Thụy Đi�̉n kiện chính phủ Đức là đã hạn ch�́ các nhà máy điện chạy bằng than và bằng hạt nhân. Veolia, một công ty xử lý ch�́t thải của Pháp đang kiện Ai Cập, buộc nước này phải hủy bỏ đạo luật v�̀ lương t�́i thi�̉u. Hãng dược Eli Lilly đang ch�́ng lại Canada v�̀ việc nước này đang n�̃ lực làm giảm giá thuộc thông qua (việc c�́p) các gi�́y phép kinh doanh thu�́c hạn ch�́, đ�̉ bảo hộ cho các công dân của mình. Eli Lily cáo buộc Canada đang không cho hãng này ki�́m lời như nó mu�́n.

Tính đ�́n cu�́i tháng 5/2015, các doanh nghiệp Hoa Kỳ ở Việt Nam thực hiện 742 dự án, có t�̉ng giá trị lên tới 11 tỉ USD. Các hãng chính của Mỹ ở đây, bao g�̀m Coca-Cola, PepsiCo, IBM, Cargill, Microsoft, Citigroup, Chevron, Ford, General Electric, AES (trước đây gọi là Applied Energy Services), và UPS—đã thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Một s�́ người Mỹ lập những công ty ở Việt Nam đã làm ăn mà không đ�́m xỉa đ�́n sự thông cảm và mong mu�́n (các công ty này) lưu tâm đ�́n sự nghèo khó sau chi�́n tranh; họ đã không nhận th�́y, khi TPP được áp vào, các công ty mà họ đại diện cho có th�̉ làm phương hại đ�́n chủ quy�̀n của Việt Nam.

Những lĩnh vực quan trọng đ�́i với an ninh kinh t�́ ở Việt Nam có th�̉ bị suy sụp dưới tác động của TPP.

Một s�́ người trong chính phủ Việt Nam có th�̉ đã quan ngại v�̀ những vụ kiện tụng như vậy, đi�̀u sẽ làm y�́u những luật lệ và quy ch�́ bảo hộ môi trường, sức khỏe công dân, giáo dục thanh thi�́u nhi, và chủ quy�̀n qu�́c gia của Việt Nam. Luật đ�̀u tư năm 2005 của Việt Nam đưa ra năm loại lĩnh vực:

  1. lĩnh vực c�́m
  2. lĩnh vực khuy�́n khích
  3. những ngành ngh�̀ kinh doanh có đi�̀u kiện áp dụng cho các nhà đ�̀u tư nước ngoài và trong nước
  4. những ngành ngh�̀ kinh doanh có đi�̀u kiện áp dụng cho các nhà đ�̀u tư nước ngoài

N�́u một doanh nghiệp Mỹ tuyên b�́ rằng Việt Nam đang c�́m công ty này được đ�̀u tư vào lĩnh vực 1 nói trên (các ngành ngh�̀ được xem là “b�́t lợi đ�́i với qu�́c phòng, an ninh và lợi ích công cộng, sức khỏe, hoặc các giá trị lịch sử và văn hóa) khi TPP đã có hiệu lực, liệu công ty này có khởi kiện Việt Nam? Nội dung th�̉m th�́u ra ngoài của TPP gây một nghi ngại liệu các nhà đàm phán Việt Nam đã có quán triệt rằng chủ quy�̀n của Việt Nam sẽ được tôn trọng. N�́u bị kiện khi TPP có hiệu lực, chủ quy�̀n của Việt Nam sẽ không được bảo toàn.

Một câu hỏi nữa dành cho Lĩnh vực 3 (các hoạt động “có ảnh hưởng tới qu�́c phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội; văn hóa, thông tin, báo chí và xu�́t bản, tài chính và ngân hàng, sức khỏe cộng đ�̀ng, dịch vụ giải trí, b�́t động sản, thăm dò, tìm ki�́m, thăm dò và khai thác các tài nguyên thiên nhiên, sinh thái môi trường, giáo dục và đào tạo”). Khi TPP có hiệu lực, liệu các công ty nước ngoài có kiện Việt Nam đã hạn ch�́ sự dính líu của họ vào các lĩnh vực này? Liệu các nhà băng do người nước ngoài là chủ sở hữu có gi�́y phép hoạt động ở Việt Nam đòi họ phải có được mức lợi nhuận cao mà họ được hưởng ở Mỹ hoặc ở các nước khác? Liệu Việt Nam có phải dừng chi�́n dịch ch�́ng hút thu�́c là lại?

Vào tháng 6/2015, Hội đ�̀ng kinh doanh Hoa Kỳ—ASEAN cho rằng TPP sẽ làm cho Việt Nam trở nên đặc biệt h�́p d�̃n với nhà đ�̀u tư Mỹ. Vì sao? Vì TPP sẽ cho phép các doanh nghiệp được hoạt động không sợ bị trừng phạt khi không coi trọng chủ quy�̀n của Việt Nam.

Liên minh Doanh nghiệp Mỹ ủng hộ TPP đã bỏ ra 118 triệu USD trong quý b�́n của năm 2014, 216 triệu USD trong quý một năm 2015, và 135 triệu vào quý 2 năm 2015, t�̉ng cộng là 379 triệu USD.

Hiệp định TPP bao g�̀m gi�́y phép kinh doah các dược ph�̉m mới. Những gi�́y phép này ngăn sự phát tri�̉n của các dược ph�̉m rẻ hơn đang làm cho giá thu�́c men là phải chăng đ�́i với người Việt Nam. Người Việt Nam nên đặt ra câu hỏi: ‘Liệu gia đình của chúng ta có buộc phải thay những dược ph�̉m rẻ hơn với các ch�́ ph�̉m thu�́c có thương hiệu đa qu�́c gia được TPP bảo hộ?”

Những người Mỹ c�̀n đặt câu hỏi: “Liệu chúng ta có nên buộc người Việt phải mua thu�́c men với giá đắt như người Mỹ v�̃n đang trả không?

Việt Nam là nước xu�́t kh�̉u gạo lớn thứ hai của thé giới, nhưng TPP đang đưa đ�́n một sự giảm giá nông ph�̉m trên cả thị trường nội địa l�̃n xu�́t kh�̉u. Không may là Việt Nam là một trong năm nước đứng hàng đ�̀u danh sách bị đe dọa bởi mực nước bi�̉n dâng cao do bi�́n đ�̉i khí hậu. Hai đ�̀ng bằng lớn của Việt Nam là Vựa lúa châu th�̉ sông Mekong và đ�̀ng bằng sông H�̀ng đang bị đe dọa, tuy nhiên TPP cho phép các công ty Mỹ được kiện Việt Nam v�̀ các chính sách và quy ch�́ bảo vệ một trường được lập ra đ�̉ bảo vệ hai vùng đ�̀ng bằng d�̃ bị t�̉n thương này, dân cư ở đó, và chủ quy�̀n v�̀ lương thực của Việt Nam. Đặc biệt, các công ty kinh doanh thu�́c trừ sâu của Mỹ đang có xu hướng mu�́n kiện Việt Nam vì đã áp dụng có k�́t quả chương trình Quản trị dịch hại t�̉ng hợp do FAO đ�̀ xướng, một chương trình bảo vệ môi trường và cải thiện lợi tức từ hoa màu nhờ các kỹ thuật ki�̉m soát sinh vật gây hại, chứ không dùng thu�́c trừ sâu, và chỉ dùng các hóa ch�́t trừ sâu bọ ở nơi nào tuyệt đ�́i c�̀n thi�́t.

Một n�̃ lực chủ y�́u đã được bỏ ra đ�̉ vận động hành lang ở Việt Nam cho TTP, với những nhà tư v�́n được trả lương cao, một dàn đ�̀ng ca trên báo chí trong ngoài nước, và cuộc kỷ niệm 20 năm thi�́t lập quan hệ ngoại giao kéo tới một năm ròng của sứ quán Mỹ cũng nhằm thúc đ�̉y TPP khi nội dung của Hiệp định này còn đang được gói trong bức màn bí mật. Như đã nói trên, các tập đoàn thương mại cũng d�́y lên một n�̃ lực lobby còn lớn hơn ở Mỹ.

Một s�́ người r�́t giàu ở Việt Nam chắc sẽ được lợi. Một ph�̀n trăm nhỏ của những người Mỹ giàu có và các c�̉ đông chính của các tập đoàn thương mại sẽ ki�́m ra nhi�̀u ti�̀n hơn. Những người dân thường và người nghèo sẽ chịu t�̉n th�́t. Đi�̀u này thường xảy ra khi các hiệp định được vi�́t trong vòng bí mật.

Giai đoạn thông qua (TPP) sẽ là then ch�́t. Những dân bi�̉u—các nhà lập pháp ở Mỹ và Việt Nam và ở các qu�́c gia đã ký hiệp định này—sẽ thảo luận nội dung đ�̀y đủ của TPP vừa được công b�́. Trong khoảng thời gian c�̀n đ�̉ thông qua hay bác bỏ một hiệp định có ảnh hưởng rộng lớn như th�́, công dân bình thường ở Việt Nam, Mỹ và các nước khác c�̀n c�́t cao ti�́ng nói của mình.

* Chuck Searcy là một cựu chi�́n binh chi�́n tranh Việt Nam. Lady Borton từng làm việc với t�́t cả các phía của cuộc chi�́n tranh đó. Cả hai đã sang Việt Nam làm việc trước khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao Mỹ—Việt, 20 năm v�̀ trước.

(English version here)

Tags: Trans-Pacific Partnership, TPP

Name: Remember me
E-mail: (optional)
Smile:smile wink wassat tongue laughing sad angry crying 
Captcha